Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Mệnh lệnh nhất quyết trong triết học của Kant

Mệnh lệnh nhất quyết (Categorical Imperative), cũng xem: NHƯ THỂ, ĐỘC LẬP (SỰ, TÍNH), TỰ DO (SỰ), NGOẠI TRỊ (SỰ), MỆNH LỆNH, QUY LUẬT, CHÂM NGÔN, TRIẾT HỌC THỰC HÀNH, Ý CHÍ.

Không nghi ngờ gì, mệnh lệnh nhất quyết là một trong những phương diện nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh luận nhất trong triết học thực hành của Kant. Đến nay nó đã được diễn giải theo vô số cách: như nguyên tắc của một môn triết học hình thức rỗng tuếch; như một sự vinh danh cho đức hạnh của người Phổ là sự tuân lệnh mù quáng trước tiếng gọi của nghĩa vụ; như một nguyên tắc nền tảng cho một nghiên cứu duy lý, khách quan về hành vi luân lý (moral)

Với bản thân Kant, mệnh lệnh nhất quyết dường như bao gồm cả hai khát vọng triết học có vẻ là không nhất quán. Khát vọng thứ nhất, giản đơn hơn, chính là tìm cách thiết lập mệnh lệnh nhất quyết như một nguyên tắc có tính chuẩn tắc dùng để phân biệt các châm ngôn (maxims) [ theo Kant: châm ngôn là các nguyên tắc chủ quan của hành động, chứa đựng một sự quy định phổ biến của ý chí và nhiều nguyên tắc thực hành- ND] về hành động, trong khi khát vọng thứ hai là coi nó như phương tiện để biện minh cho một nghiên cứu đặt trên nền tảng siêu hình học về sự tự do như thể (điều gì đó-ND) độc lập với ý chí. Thảo luận tiếp theo đây cốt nhấn mạnh vào tính nhất quán trong nghiên cứu của Kant về mệnh lệnh nhất quyết, và cụ thể là về việc liệu nó có thể đứng vững được chăng nếu không có một một môn siêu hình học về tự do.

Trước khi xem xét tuyên bố của Kant về mệnh lệnh nhất quyết trong SHĐL ( Siêu hình học về đức lí) và PPLTTT( Phê phán lí tính thuần tuý) , có lẽ sẽ là hữu ích nếu ta định nghĩa trước nội dung của hai thuật ngữ “mệnh lệnh” và “nhất quyết”. Kant định nghĩa một mệnh lệnh là mọi “mệnh đề biểu hiện một hành động tự do khả hữu, qua đó một mục đích nào đó được hiện thực hoá (L (Lo-gic) tr.58). Các phát biểu như thế được đặt cơ sở trên một dạng “tính tất yếu” khác với tính tất yếu nơi các phát biểu lý thuyết; Hơn là việc nhấn mạnh vào cái Đang-là, các phát biểu (dạng mệnh lệnh-ND) nhấn mạnh vào cái Phải-là. Và cũng như việc, qua một mệnh đề, ta có vô số cách nhấn mạnh vào cái “Đang là”, cũng sẽ có vô số cách khác nhau nhấn mạnh cái “Phải là”. Có vô số hình thức “mệnh lệnh”, mà trong đó “nhất quyết” chỉ là một trường hợp, song là một trường hợp đặc biệt và tiêu biểu.

Hình thức của tính tất yếu biểu lộ qua sự “Buộc phải” có chung trong tất cả các mệnh lệnh, theo Kant, thể hiện “mối quan hệ của một qui luật khách quan thuộc lý tính với một ý chí không bị xác quyết một cách tất yếu bởi qui luật đó do cấu tạo có tính chủ quan của ý chí ấy” (SHHĐ tr. 413, tr. 24). Mệnh lệnh có thể hoặc là giả thiết, hoặc nhất quyết, và sự phân biệt ở đây chỉ phụ thuộc vào việc liệu mối quan hệ giữa quy luật với ý chí có nhắm hướng tới một mục đích hay không. Trong trường hợp là mệnh lệnh giả thiết, mối quan hệ này sẽ nhắm tới việc đạt tới một mục đích, trong khi với trường hợp mệnh lệnh nhất quyết thì không. Kant còn chia nhỏ mệnh lệnh giả thiết thành hoặc là có tính quả quyết (assertoric) hoặc là có vấn đề (problematic) tuỳ theo việc chúng nhắm tới mục đích thực hữu (actual) hay khả hữu (possible). Các nguyên tắc của một mệnh lệnh giả thiết thực hữu được mô tả như “các quy tắc (rules) của kĩ năng”, hay “mệnh lệnh kĩ thuật” (tài khéo) [quy định phương tiện cần thiết để đạt tới một cứu cánh (mục đích): ví dụ muốn giàu phải thu nhiều hơn chi-ND], trong khi các nguyên tắc của một mệnh lệnh giả thiết khả hữu là “những tư vấn của sự khôn ngoan”, hay mệnh lệnh có tính thực tiễn, thực dụng (pragmatic imperatives) [ ví dụ: hạnh phúc ( kể cả những quy định về ăn, ở , mặc… có lợi cho sức khoẻ-ND]

Thật rõ ràng là trong SHHĐ và PPLTTT Kant cho rằng truyền thống triết học đạo đức cũ đã chỉ khảo sát các hình thức mệnh lệnh giả thiết (xem, ví dụ bảng tổng kết các nền tảng của những nguyên tắc đạo đức trong PPLTTT, tr 40, tr.41). Tất cả chúng đều trình ra các tuyên bố về hình thức “hành động nhằm thực hiện mục đích X ( X=hạnh phúc, thoả mãn, beatitude [sự vinh phúc], sự phúc lợi, sự hoàn hảo, sự vinh danh Chúa). Mệnh lệnh nhất quyết , trái lại, lại tuyên bố một hành động tất yếu “không cần tham chiếu tới bất kì mục đích nào” mà chỉ quan tâm tới “hình thức của hành động và nguyên tắc mà nó tuân theo” (SHHĐ tr. 416, tr. 26). Ở trường hợp này tính tất yếu nối kết qui luật khách quan với ý chí sẽ “ giữ vai trò như một nguyên tắc thực hành hiển nhiên” (tr. 415, tr. 25)

Kant đưa ra một số điều kiện giải thích việc vì sao mệnh lệnh này của qui luật ( khách quan) lại có tính nhất quyết đối với một ý chí chủ quan. Trước hết là do mệnh lệnh này có tính hình thức. Tính hình thức này đến từ việc mệnh lệnh ấy không hề quan tâm tới việc thực hiện bất kỳ mục đích cụ thể nào; có nghĩa là mệnh lệnh nhất quyết “không hề quan tâm tới các vấn đề thuộc hành động và kết quả mà hành động ấy nhắm tới, nhưng chỉ quan tâm tới hình thức của hành động và nguyên tắc mà hành động ấy phải tuân theo” (tr. 416, tr. 26). Một điều kiện khác đòi hỏi rằng mệnh lệnh nhất quyết phải được nhận ra ngay lập tức, và chính điều kiện này sẽ dẫn tới điều kiện quan trọng nhất: mệnh lệnh nhất quyết nhấn mạnh tính phổ quát của qui luật. Điều này giải thích tuyên bố về những gì mà Kant mô tả là một mệnh lệnh nhất quyết duy nhất, tức “hành đông chỉ dựa theo châm ngôn, qua đó bạn đồng thời có thể muốn rằng -nó (châm ngôn ấy-ND) trở thành một quy luật phổ quát” (tr. 421, tr. 30).

Kant sử dụng tuyên bố này về mệnh lệnh nhất quyết như “bộ chuẩn tắc cho việc đánh giá vể mặt đạo đức mọi hành động của chúng ta (tr.424, tr.32). Ông cũng sử dụng nó để làm rõ các hành động được hoàn tất trong phạm vi của mệnh lệnh về nghĩa vụ. Những mệnh lệnh như thế có tính nhất quyết khi chúng tuân theo hình thức “hành động như thể châm ngôn về hành vi của bạn, thông qua ý chí, phải trở thành những định luật tự nhiên phổ quát (tr.421, tr.30). Tuy nhiên Kant đã không hài lòng với các kết quả đáng kể có thể đạt tới được nhờ vào sự sử dụng mệnh lệnh nhất quyết theo kiểu bộ chuẩn tắc. Bản thân mệnh lệnh nhất quyết cũng phải được biện hộ: có nghĩa là, cần thiết phải chứng minh một cách tiên nghiệm rằng thật sự có một mệnh lệnh kiểu này”. Song không chỉ có thế, mệnh lệnh nhất quyết cũng bị đòi hỏi phải “cho thấy rằng có một qui luật thực hành, đòi hỏi bản thân một cách tuyệt đối và không cần có bất kì động lực nào khác, và rằng nghĩa vụ sẽ là điều đến sau qui luật này (tr.425, tr.33). Và kết quả là ông đã phân chia qui luật thực hành và “đặc tính đặc biệt của bản chất con người” theo cách giống với sự phân chia giữa các lãnh địa thuộc xuất tượng (noumenal) và thuộc hiện tượng (phenomenal)trong triết học lý thuyết của ông

Nhu cầu phải chứng minh sự hiện hữu của mệnh lệnh trước hết dẫn tới việc truy tìm dạng qui luật đòi hỏi một cách tuyệt đối, và rồi tới “điều gì đó, như thể một mục đích tự thân,- có thể trở nên một nền tảng cho các quy luật xác quyết (p. 428, p. 35). Chính điều này sẽ tạo nên nền tảng cho cả mệnh lệnh nhất quyết và qui luật thực hành. Kant chuyển hướng sự truy tìm một mục đích tự thân sang sự truy tìm các hữu thể với “giá trị tuyệt đối”, tức những kẻ tự mình là các mục đích. Ông nhanh chóng định dạng các hữu thể này là các “nhân cách” [persons] và tiến hành việc tìm tính phổ quát của mệnh lệnh nhất quyết “từ sự quan niệm về những gì là một mục đích tất yếu cho mọi người bởi mục đích này chính là một mục đích tự thân”. Công thức của mệnh lệnh này giờ đây là: “ hành động sao cho tính người không những nơi nhân cách của bạn mà cả trong nhân cách của bất cứ ai lúc nào cũng được bạn sử dụng như là cứu cánh (mục đích) chứ không bao giờ như một phương tiện” (tr.429, tr.36). Mệnh lệnh này sẽ được sử dụng như chuẩn tắc để phán đoán các châm ngôn về các trường hợp cụ thể.

Kant công nhận rằng việc tiến tới một”môn siêu hình học của đức lí”, tức môn siêu hình học, một cách tất yếu, củng cố cho mệnh lệnh nhất quyết,- sẽ đưa triết học thực hành tới một vị trí bấp bênh. Mối nguy này còn được tiếp lực bởi tầm quan trọng mà Kant gán cho khái niệm tự do. Chính tự do đã cho phép chuyển tiếp từ một “môn siêu hình học về đức lí” tới “một phê phán lý tính thực hành”, song tự do cũng lại vừa biện minh (cho), vừa được biện minh (bởi) mệnh lệnh nhất quyết. Tình huống này có nguyên nhân từ hai cách hiểu của Kant về khái niệm tự do. Ông phân biệt giữa tự do tiêu cực, tức sự tư do bị xác quyết bởi các nguyên nhân từ bên ngoài (ngoại trị), và sự tư do như điều gì độc lập (khỏi các nguyên nhân và động lực từ bên ngoài-ND), tức sự tự do nơi một chủ thể tự buộc mình phải tuân theo quy luật. Với dạng tự do sau, ý chí tự là một quy luật cho chính nó, tức không gì khác hơn việc hành động dựa theo một châm ngôn có thể “đồng thời coi bản thân như một quy luật phổ quát áp đặt vào đối tượng” (tr. 421, tr. 30). Ý tưởng về sự tự do như điều gì đó độc lập, do đó, đã được phát hiện như thể nền tảng cho mệnh lệnh nhất quyết, tức như một giả định tất yếu mà chúng ta tự nguyện áp đặt vào bản thân và vào các hữu thể duy lí khác trong chừng mực những hữu thể ấy cũng sở hữu một ý chí hay ý thức về quan hệ nhân quả nơi hành động của họ (tr.449, tr.51). Vì vậy, chúng ta chỉ có được sự tự do kiểu này khi chúng ta tạo ra các mệnh lệnh nhất quyết.

Định hướng cho những sự phê phán mệnh lệnh nhất quyết của các triết gia sau Kant có thể được tóm gọn lại một cách đầy đủ nhất trong câu của Nietzsche “Mệnh lệnh nhất quyết toả mùi nghiệt ngã” (Nietzsche, 1887, p. 65). Nỗ lực của Kant nhằm đặt nền tảng cho mệnh lệnh nhất quyết bằng một ý niệm tích cực về tự do như điều gì độc lập đã thất bại, bởi (với các triết gia sau Kant-ND), tự do và mệnh lệnh nhất quyết đã bị định nghĩa thuộc các phạm vi có tính phản động như sự đàn áp hay sự ngăn chặn nhắm vào ảnh hưởng (tự nhiên) từ bên ngoài, cũng như nhắm vào khuynh hướng tình cảm và cảm xúc của con người. Sự phê phán kiểu này lên tới mức một tuyên bố cực đoan trong một xu hướng phê phán do Hegel và Schopenhauer khởi đầu nhắm vào mệnh lệnh nhất quyết. Hegel, trong khi nhìn nhận một cách có cảm tình đối với định nghĩa của Kant về sự tự do độc lập với ý chí, vẫn thấy sự lập thức luân lý của nó trong mệnh lệnh nhất quyết là có tính hình thức và trừu tượng, do đó, tất yếu sẽ ngăn chặn “mọi nội dung và sự cụ thể hoá”. Schopenhauer coi mình là kẻ tuyên án tử hình cho mệnh lệnh nhất quyết và quy luật đạo đức, và cùng với đó là toàn bộ nỗ lực đặt cơ sở cho triết học thực hành trên sự tự do của ý chí. Các tác phẩm gần đây về đức lý học của Kant nhìn chung đều chấp nhận những nghi ngờ này về cơ sở siêu hình học của mệnh lệnh nhất quyết và tập trung vào sự sử dụng nó như một công thức có tính chuẩn tắc để trắc nghiệm tính nhất quán và tính phổ quát nơi các châm ngôn về hành động (xem O'Neill, 1989)

xem thêm hạnh phúc

(Như Huy dịch từ "Một từ điển về Kant" [a Kant dictionary], tác giả Howard Caygill, NXB Blackwell xuất bản 2000, mục từ Mệnh lệnh nhất quyết, từ tr.99- tr.102)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét